Bộ luật tố tụng hình sự 2015 là một văn bản pháp lý quan trọng, đóng vai trò chủ chốt trong việc quy định các hoạt động tố tụng hình sự tại Việt Nam. Với các quy định chi tiết và cụ thể, bộ luật này nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, đảm bảo công lý và xử lý công minh những hành vi phạm tội. Đọc ngay bài viết để tìm hiểu chi tiết và thông tin hữu ích từ vanphongluatsuquocte.com.
Quy định chung của luật tố tụng hình sự
Mục tiêu và nguyên tắc của luật tố tụng hình sự
Mỗi một bộ luật đều có mục tiêu và nguyên tắc riêng, và bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng không ngoại lệ. Một trong những mục tiêu hàng đầu của bộ luật là bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi hợp pháp của công dân. Điều này thể hiện rõ ràng qua các quy định nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
Phạm vi áp dụng
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực trên toàn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động tố tụng hình sự, dù là đối với công dân trong hay ngoài nước, đều phải tuân thủ theo các quy định của bộ luật này.
Ngoài ra, đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, việc áp dụng luật cũng được quy định cụ thể để đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong xử lý. Cũng như vậy, những người thuộc đối tượng hưởng quyền miễn trừ ngoại giao sẽ được xử lý theo các quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế.
Trách nhiệm của các cơ quan tố tụng
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã xác định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng. Điều này không chỉ giúp cho quá trình tố tụng diễn ra suôn sẻ mà còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để mỗi cơ quan biết được giới hạn của mình trong việc thực thi pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Điều 157 bộ luật tố tụng hình sự 2015 – Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Điều 174 bộ luật tố tụng hình sự 2015 – Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1. Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.
Thẩm quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 5 Điều 172 của Bộ luật này.
2. Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.
Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.
3. Trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật này.
Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật này.
Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự
Người tham gia tố tụng
Trong bộ luật tố tụng hình sự 2015, người tham gia tố tụng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau, từ người bị buộc tội cho đến người đại diện hợp pháp. Mỗi đối tượng đều có quyền và nghĩa vụ riêng trong quá trình tố tụng, và việc hiểu rõ các quyền lợi này là rất cần thiết.
Người bị buộc tội có quyền được bào chữa và làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án của mình.
Các cơ quan có thẩm quyền
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng quy định rõ ràng về các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiến hành tố tụng. Như đã đề cập ở trên, mỗi cơ quan đều có trách nhiệm và quyền hạn riêng, và sự phối hợp giữa các cơ quan này là rất quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình xử lý các vụ án.
Các cơ quan như Viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan điều tra đều đóng vai trò chủ chốt trong việc bảo vệ công lý và xử lý các hành vi phạm tội.
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự ngày càng trở nên cần thiết. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định rõ về việc áp dụng các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong việc xử lý các vụ án liên quan đến người nước ngoài phạm tội.